MỘT SỐ PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA CÁC DÂN TỘC BẠN CẦN BIẾT KHI ĐẾN THĂM LÀNG, BẢN
1. Khi đến bản, làng
Trên đường vào nhà Hà Nhì, khi thấy một cánh cổng chào dựng tạm phía trên buộc tua tủa những dao gỗ, kiếm gỗ, đầu cánh gà... đó là lúc trong làng tổ chức lễ cúng xua đuổi tà ma.
Tương tự như vậy hàng năm các nghi lễ chung cúng dân thần làng, xua đuổi ma ác của các đồng bào Tày, Thái, Lào, Bốy, Xá, Phó... Thường được tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng 6, 7 âm lịch. Khi cúng các đồng bào thường đặt các dấu hiệu kiêng kỵ cấm người lạ vào làng như buộc chìm lá xanh ở cột cao trên đường vào làng hoặc đan phên mắt cáo buộc vào đó xương hàm lợn, trâu, bò. Cả làng không ai đi làm, không cho người lạ vào làng. Nếu người lạ vô tình gồng gánh, đội nón, che ô, đeo gùi, ba lô...vào làng sẽ bị phạt bằng cách nộp đủ số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Nếu có việc khẩn cấp muốn vào làng ngay, khách lạ phải bỏ mũ, ô, gùi, ba lô...tất cả đồ đạc đều phải xách tay, như vậy mới mong được giảm hoặc miễn phạt.
2. Khi đến thăm nhà
Trước khi vào thăm nhà các đồng bào dân tộc du khách cần quan sát kỹ nếu thấy trước cửa nhà, ở đầu cầu thang cắm hoặc treo một cành lá xanh một cành gia hoặc cắm một tấm phên đan hình mắt cáo. Đó là những dấu hiệu kiêng cấm, gia đình không muốn người lạ vào.
Người Hà Nhì đen có hai lớp cửa khách xa tới chỉ nên vào cửa thứ nhất. Nếu muốn vào cửa thứ hai thì phải được gia đình đồng ý
Nhà của người Thái có đầu cầu thang, phụ nữ chỉ được lên bằng cầu thang bên trái, không được lên cầu thang bên phải.
Ở vị trí quan trọng nhất trong nhà (vách nhà ở giàn giữa hay góc đầu sàn nhà) là nơi thờ tổ tiên. Trang trí nơi thờ tổ tiên của mỗi dân tộc có sự khác nhau nhưng đều chung một quan niệm.
Nơi thờ tổ tiên là chốn linh thiêng nhất, khách không được đặt nón, mũ, tư trang và đồ dùng khác ở nơi đó, không được sờ tay vào các đồ thờ cúng, khi ngồi không được quay lưng vào nơi thờ. Người Thái đen phụ nữ không được đến gian đầu ngồi nhà sàn (nơi cúng tổ tiên).
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là nơi tiếp khách của đồng bào dân tộc, đồng thời là nơi linh thiêng thờ vua bếp, thần lửa. Do đó, càng có nhiều kiêng kị liên quan đến bếp lửa. Ngồi cạnh bếp sưởi lửa, không được làm xê dịch, đặt chân lên hòn đá dùng làm kiềng, vì theo quan niệm của một số dân tộc thì hòn đá này là nơi trú ngụ của thần lửa. Khi đun nấu đồng bào Tày, Thái, Nùng, Bố y, Lào, Lự...đều chú ý không đặt hai quai nồi, chảo... theo hướng câu xà ngang (vì đó là hướng nằm của người chết) mà phải đặt theo hướng đòn nóc nhà.
Trong ngôi nhà đồng bào các dân tộc cửa và cây cột chính là cũng vị trí linh thiêng thờ thần cửa, thần cột cái. Vì vậy không nên ngoòi bậu cửa hoặc treo mũ nón và dựa lựng vào cột cái.
Ở vùng người Thái, Tày, La Hủ, Phù Lá...kiêng không đem lá xanh, cành cây xanh vào cửa chính.
Đồng bào kiêng không huýt sáo trong nhà, vì nó là tín hiệu gọi ma tà, bão giông.
3. Giao tiếp sinh hoạt
+ Chào hỏi: Khi đến nhà, đi đường du khách cần chào hỏi bằng thái độ chân thành, nụ cười thật thà sẽ xoá đi mặc cảm bất đồng ngôn ngữ. Khi chia tay có thể bắt tay, không cần nói lời tạm biệt, hẹn gặp lại nhưng luôn nở nụ cười. Không xoa tay lên đầu trẻ con người Mông, Dao, vì theo họ hồn người trú ngụ ở đầu, người lạ sờ vào hồn hoảng sợ bỏ trốn làm trẻ em hay bị ốm.
+ Khi ăn uống: Mỗi dân tộc có quan niệm khác nhau về vị trí chỗ ngồi, vì vậy cần lưu ý không ngồi vào vị trí đặc biệt như: phía ghế ở gần bàn thờ của người Dao, Giấy....vì chỗ đó dành cho người cao tuổi nhất, khách quý nhất. Người Thái, Tày, Mường nơi giáp cửa sổ gia chủ đặt hai chén con có ýđịnh dành cho tổ, tiên về tiếp khách, không nên ngồi vào vị trí đó.
Trước khi ăn càn kiên trì nghe gia chủ tiến hành các nghi lễ mời tổ tiên, chúc tụng các điều tốt lành, khách không rót rượu trước, không gắp thức ăn trước. Khi dùng xong tuyệt đối không úp chén, bát xuống mâm.
Đồng bào các dân tộc tất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng bản nên chú ý những điều kiêng kị và cần biết một số phong tục tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.